Việt Nam là nước có mức độ phổ cập giáo dục phổ thông cao, tốc độ đô thị hóa nhanh với lượng dân số đông và cơ cấu dân số trẻ. Dân số năm 2015 của cả nước ước tính là 91,7 triệu người, bao gồm dân số thành thị 31,5 triệu người, chiếm 34,3%; độ tuổi trung bình dưới 25 chiếm tỷ trọng 45%; số hộ gia đình gần 23 triệu, tỷ lệ biết chữ 97,3%. Nhờ chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế rộng rãi, Việt Nam đang là một trong những quốc gia có điều kiện nhân khẩu và điều kiện phát triển các thị trường sôi động và hấp dẫn trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người tăng hơn gấp 5 lần trong vòng chưa đầy một thế hệ. Những đặc điểm nhân khẩu học và chính sách phát triển kinh tế - xã hội cùng thực tiễn những năm qua cho thấy Việt Nam là một môi trường nhiều triển vọng đối với ngành truyền thông, trong đó có lĩnh vực truyền thông mới trên nền tảng kỹ thuật số.
Xu thế thị trường hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và quốc tế hóa trong tạo lập, sử dụng và truyền bá thông tin có thể giúp xã hội có điều kiện trở nên minh bạch hơn, nhờ đó năng suất lao động gia tăng, tiện nghi cuộc sống nâng cao và mở rộng. Người làm truyền thông, nhân lực ngành truyền thông buộc phải có sự điều chỉnh thích ứng theo hướng hội tụ kỹ năng, nâng cao năng lực tự nhận thức, định hướng và giải quyết công việc sáng tạo trong khi vẫn bảo đảm những chuẩn mực và kỹ năng nghề nghiệp truyền thống. Lĩnh vực truyền thông nước ta cũng không nằm ngoài sự chi phối, tác động và ảnh hưởng từ các nhân tố này. Thực tiễn vài năm gần đây đã cho thấy sự phát triển của truyền thông Việt Nam cơ bản là tích cực nhờ nỗ lực theo sát sự phát triển của công nghệ và những chính sách hỗ trợ của Nhà nước, đồng thời cũng chịu sức ép ngày một lớn trong việc cải tổ để đáp ứng được các điều kiện môi trường biến đổi không ngừng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, với tri thức đã và đang trở thành nguồn lực quan trọng và quyết định (vượt qua các nguồn lực truyền thống, như vốn, tài nguyên, lao động) thì công nghệ và quản trị là nhân tố nội lực đóng vai trò quan trọng để bảo đảm tồn tại và hiện thực hóa được các mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn đối với hầu hết các chủ thể tham gia. Ở đây, công nghệ được coi là là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm và quản trị là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định hay phát biểu theo cách khác, là tiến trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát hoạt động của các thành viên và sử dụng tất cả các nguồn lực của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Các phương diện tiếp cận tới bối cảnh và xu thế phát triển của truyền thông dưới đây đều cho thấy, truyền thông là lĩnh vực mà ở đó nhân tố công nghệ và quản trị đóng vai trò không chỉ quan trọng mà còn quyết định đến sự tồn tại sống còn của các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực này.
Tiếp cận từ sự phát triển nhanh chóng của các thành tựu khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là các công nghệ truyền thông mới (new media):
Sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin truyền thông, đặc trưng bởi những công nghệ cho phép cá nhân hóa, di động hóa, kết nối vạn vật, tương tác tức thời, cùng với nhu cầu được tiếp nhận thông tin, được tương tác và được tham gia vào quá trình tạo lập thông tin của người dân, của các nhóm xã hội ngày càng đa dạng, phong phú và dần trở thành tự nhiên, mặc định, tạo cơ hội đồng thời cũng là thách thức to lớn cho tất cả các cơ quan, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực báo chí nói chung và truyền hình nói riêng.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông mới trên nền tảng in-tơ-nét và các thiết bị di động, từ năm 1997, Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với các hệ thống này. Thông tin điện tử thực hiện trên mạng máy tính và các ứng dụng truyền thông trên nền tảng điện thoại thông minh ngày càng phát triển và chi phối sâu rộng đến đời sống xã hội. Đến nay, 50% người dân Việt Nam sử dụng in-tơ-nét, cả nước có 143 triệu thuê bao di động, tỷ lệ tăng trưởng sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội (social media) hằng năm đều trên 20%. Tổng thời lượng sử dụng in-tơ-nét, truy cập in-tơ-nét qua điện thoại và các ứng dụng truyền thông xã hội qua điện thoại hằng ngày của người dùng lớn hơn nhiều so với lượng thời gian dành cho truyền hình (phương tiện từ trước đến nay rất hấp dẫn đối với người Việt Nam).
Công nghệ mới, đặc biệt là mạng in-tơ-nét đang tạo ra những dịch vụ truyền thông mới. Sự phát triển nhanh chóng của truyền thông mới góp phần làm phong phú thêm các kênh giao tiếp giữa của con người với mạng in-tơ-nét trên toàn thế giới. Ví dụ như blog, website, các trang cho phép người dùng tự “sản xuất” ra nội dung (tiếng Anh: user-generated content) cho phép con người chia sẻ thông tin dễ dàng hơn rất nhiều.
Bên cạnh rất nhiều những ưu điểm tích cực mà truyền thông mới mang lại, có rất nhiều hạn chế cũng đang đặt ra. Khi xã hội phát triển, công nghệ thông tin trở thành một trong những nhu cầu cần thiết đối với giới trẻ, đặc biệt là sự phát triển của các trang mạng xã hội. Tuy nhiên bên cạnh tính tiện ích vốn có của nó thì việc không thể kiểm soát thông tin, hoặc đua theo những trào lưu vô cảm, đang biến các trang mạng xã hội thành những cái bẫy nguy hiểm cho người sử dụng. Việc nghiên cứu, nắm bắt, ứng dụng, phát triển và làm chủ công nghệ truyền thông mới là một nhiệm vụ quan trọng đối với các trung tâm nghiên cứu truyền thông, với cả hệ thống quản lý nhà nước và người hoạt động trong lĩnh vực. Sự cần thiết phải có những trung tâm đào tạo cả về công nghệ và phương thức ứng dụng, sáng tạo nội dung truyền thông mới (new media) là một yêu cầu cấp bách hiện nay.
Tiếp cận từ chiến lược phát triển hệ thống báo chí, truyền thông Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Theo định hướng “Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến năm 2025”, việc phát triển báo chí truyền thông phải phù hợp với xu thế phát triển khoa học - công nghệ và xu thế phát triển thông tin, truyền thông trên thế giới. Kết hợp chặt chẽ các loại hình báo chí, đồng thời phát huy lợi thế của các phương tiện, dịch vụ trên mạng in-tơ-nét nhằm chủ động cung cấp thông tin chính thống, có định hướng, tăng diện bao phủ trong nước và quốc tế; hạn chế ảnh hưởng tiêu cực và bảo đảm an toàn, an ninh thông tin mạng. Trong những năm tới, việc triển khai quy hoạch hệ thống báo chí truyền thông cả nước, theo hướng sắp xếp hệ thống báo chí gắn liền với đổi mới mô hình, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý báo chí để phát triển hệ thống báo chí theo hướng chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thông tin đa dạng của nhân dân, phù hợp với từng đối tượng, vùng, miền. Xây dựng một số cơ quan báo chí chủ lực, đa phương tiện làm nòng cốt, có vai trò định hướng thông tin báo chí, thông tin trên in-tơ-nét. Xuyên suốt quá trình này, vai trò đào tạo, đào tạo lại đội ngũ nhân lực trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực truyền thông là hết sức cần thiết.
Căn cứ định hướng Đề án quốc gia “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin và truyền thông” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 22-9-2010; trong đó tầm nhìn đến năm 2020: công nghệ thông tin sẽ làm nòng cốt để Việt Nam chuyển đổi cơ cấu kinh tế - xã hội, trở thành nước có trình độ tiên tiến về phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Để triển khai mục tiêu này, từ nay đến 2020 yêu cầu trọng tâm được đặt ra là phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông đạt tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, thực tiễn triển khai Đề án trong thời gian qua đã khẳng định vai trò hết sức quan trọng của công tác nghiên cứu và đào tạo nhân lực một cách cơ bản, toàn diện và có chiều sâu. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của báo chí, truyền thông gắn chặt với kết quả đào tạo nhân lực, chất lượng cơ sở đào tạo, cơ sở vật chất kỹ thuật, đội ngũ giảng viên, nội dung giáo trình chương trình giảng dạy, ngành và chuyên ngành đào tạo... cần phải bảo đảm được xu hướng phát triển của hệ thống báo chí, truyền thông.
Tiếp cận từ nhu cầu kinh tế - xã hội:
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, đến hết tháng 12-2015, cả nước có hơn 400.000 doanh nghiệp đang hoạt động. Trong số đó, hơn 3.100 doanh nghiệp thuộc khu vực Nhà nước; hơn 11.300 doanh nghiệp thuộc khu vực vốn đầu tư nước ngoài và gần 387.000 doanh nghiệp khu vực kinh tế ngoài Nhà nước. “Kỷ nguyên số” mang đến cho doanh nghiệp rất nhiều cơ hội nhưng cùng với đó là không ít thách thức. Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, doanh nghiệp phải hội tụ được rất nhiều yếu tố; một trong số đó chính là uy tín truyền thông. Uy tín truyền thông đã, đang và sẽ luôn là một phần quan trọng, là tài sản vô hình quý giá có tầm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhu cầu về các hoạt động kinh tế dựa trên truyền thông, như quảng cáo, quan hệ công chúng (PR), xây dựng thương hiệu, tiếp thị, truyền thông tập đoàn trong xã hội đang tăng mạnh. Theo một cuộc khảo sát thị trường gần đây, Việt Nam hiện có hơn một nghìn doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực PR và quảng cáo, với mức tăng trưởng hằng năm đạt khoảng 30%. Khoảng 2/3 công ty quốc doanh và hơn 3/4 công ty tư nhân trong cuộc khảo sát này đã sử dụng các dịch vụ PR. Nhu cầu về nhân lực truyền thông cần được qua đào tạo chuyên nghiệp vì thế đang tăng lên.
Theo số liệu khảo sát Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động trong giai đoạn 2015 - 2020 và đến năm 2025, tổng nhu cầu nhân lực, các nhóm nghề kỹ thuật công nghệ chiếm 35%, nhu cầu nhân lực ở nhóm ngành nghề truyền thông - quảng cáo - marketing chiếm tới 3% tổng nhu cầu nhân lực. Với xu hướng toàn cầu hóa sau khi Việt Nam gia nhập các tổ chức thương mại toàn cầu và khu vực, yêu cầu về khả năng tư duy và phương pháp truyền thông cũng như quản trị truyền thông ngày càng trở nên cần thiết cho khả năng cạnh tranh địa phương và toàn cầu của giới truyền thông Việt Nam.
Tiếp cận từ “tinh thần khởi nghiệp” và “đổi mới sáng tạo”:
Phát triển hệ sinh thái doanh nghiệp vừa và nhỏ trên “tinh thần khởi nghiệp” ở Việt Nam hiện nay được Đảng, Nhà nước và cả xã hội quan tâm. Nền tảng của nền tảng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo chính là con người được trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ đáp ứng được đòi hỏi đặc trưng mới của nền kinh tế. Một trong những kỹ năng quan trọng của người lao động trong nền kinh tế khởi nghiệp là kỹ năng quản trị. Về cơ bản, kỹ năng quản trị là tập hợp của ba nhóm kỹ năng gồm: kỹ năng nhận thức, kỹ năng quan hệ và kỹ năng về kỹ thuật. Đây cũng chính là những nhóm kỹ năng mà lao động trong lĩnh vực truyền thông, đặc biệt trong môi trường truyền thông mới hiện nay cần phải có để có thể thành công trong công việc. Quản trị truyền thông thực chất chính là quản trị kinh doanh nhưng được đào tạo chuyên sâu vào quản trị lĩnh vực truyền thông. Quản trị truyền thông có một sự liên kết rõ ràng từ quản trị tới công nghệ thông tin và truyền thông.
Theo hướng tiếp cận từ “tinh thần khởi nghiệp” và “đổi mới sáng tạo”, phát triển các mô hình đào tạo truyền thông theo hướng ứng dụng, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực theo mục tiêu trang bị đồng bộ, hài hòa kiến thức, kỹ năng và thái độ chuẩn mực đối với nghề nghiệp và môi trường xung quanh là hướng phát triển cần thiết, phù hợp. Nhờ đó, sinh viên tốt nghiệp có đủ khả năng để tham gia vào khu vực truyền thông với vị trí người lao động làm thuê cho tới tự thân gây dựng phát triển các ý tưởng sáng tạo, các dự án kinh doanh riêng của mình.
Một số vấn đề đặt ra
Tại Việt Nam, cùng với sự bùng nổ truyền thông kỹ thuật số như đã nói ở trên, những ưu tiên nghề nghiệp trong lĩnh vực truyền thông mới đã được ghi nhận. Tuy nhiên, việc giáo dục chuyên sâu về công nghệ truyền thông, các phương thức sáng tạo và quản trị truyền thông trên nền in-tơ-nét chưa phát triển toàn diện. Trong khi đó, từ đầu những năm 2000, các trường đào tạo, nghiên cứu về báo chí - truyền thông trên thế giới, đặc biệt là khu vực Bắc Mỹ và châu Âu đã triển khai đào tạo truyền thông theo hướng ứng dụng, tập trung vào công nghệ và phương thức sáng tạo - quản trị nội dung trên nền tảng số, phát triển các công cụ và ứng dụng truyền thông trên nền tảng in-tơ-nét. Đến những năm 2009, khi nền tảng điện thoại di động 4G phát triển ở châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản, các trường bắt đầu đào tạo phương pháp tác nghiệp báo chí trên điện thoại thông minh. Trên khắp các châu lục, đến nay, hầu hết các trường đại học lớn về khoa học xã hội và nhân văn, các trường đại học về truyền thông đều có khoa/ngành nghiên cứu, đào tạo về lĩnh vực truyền thông mới (new media). Tùy quy mô và phương thức đào tạo của từng trường, việc tổ chức giảng dạy, đào tạo về lĩnh vực truyền thông mới có thể là một khoa riêng, hoặc là một ngành nằm trong khoa/trường truyền thông, hoặc chí ít là các bộ môn đào tạo về phương tiện truyền thông mới.
Những kỹ năng về quản trị truyền thông ở Việt Nam hiện nay chủ yếu được thu lượm từ các kinh nghiệm thực tế hơn là từ một hệ thống kiến thức chuyên biệt và một cách tiếp cận dựa trên tri thức. Các dịch vụ truyền thông và dịch vụ dựa trên các phương tiện truyền thông hầu như chưa được xem là các hoạt động công nghiệp với những đặc thù kinh tế rất riêng, cần được tiếp cận bằng những kỹ thuật và phương pháp quản lý chuyên biệt. Nhiều cơ quan báo chí truyền thông ở Việt Nam muốn phát triển thành những tập đoàn, tổ hợp truyền thông đa phương tiện nhưng vẫn chưa tìm ra được mô hình phát triển kinh tế - tổ chức thích hợp. Trong những năm tới, các cơ quan thông tin truyền thông và giới cung cấp các dịch vụ truyền thông trong nước sẽ phải đầu tư một cách đáng kể vào việc đào tạo chính quy cho đội ngũ nhân lực truyền thông công nghệ cao, bởi họ cần phải trở nên chuyên nghiệp hơn để có thể cạnh tranh với nhau và cạnh tranh với các dịch vụ thông tin - truyền thông nước ngoài.
Việc lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động báo chí ở Việt Nam, cũng như điều hành tổ chức hoạt động của 1.045 cơ quan báo chí trung ương và địa phương cũng cần có nguồn nhân lực am hiểu về công nghệ, phương thức sáng tạo và quản trị truyền thông hiện đại. Cùng lúc đó, những người trẻ công tác trong nghề đang nắm giữ vị trí quản lý mong muốn được đào tạo bài bản và nhanh chóng để tiếp cận quản lý công việc hiệu quả. Tuy nhiên, việc đào tạo báo chí - truyền thông hiện nay vẫn tập trung theo hướng đại học nghiên cứu, hoặc tập trung vào vai trò chính trị của báo chí và hệ thống lý luận tuyên truyền. Hầu hết các cơ sở đào tạo hiện nay tập trung vào các loại hình truyền thông đại chúng (báo in, phát thanh, truyền hình) hoặc chỉ đề cập một góc độ nhất định của truyền thông hiện đại (báo điện tử). Các mô hình, phương pháp đào tạo về báo chí truyền thông hiện nay vẫn xây dựng dựa trên phương diện hoạt động nội dung, sáng tạo tác phẩm nội dung cho các phương tiện truyền thống hoặc tập trung vào mảng hoạt động báo chí. Khía cạnh quan trọng khác là công nghệ, kỹ thuật, phương thức sáng tạo và quản trị nội dung số (digital) chưa được chú trọng, tạo ra khoảng trống trong sự phát triển như vũ bão của các phương tiện truyền thông thời đại số.
Với xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, yêu cầu về tư duy, phương pháp sáng tạo và quản trị truyền thông mới (new media) cả về phương diện nội dung và công nghệ đang trở nên bức thiết ở Việt Nam. Nắm bắt được nhu cầu xã hội về quản trị truyền thông, hiện nay đã có một số cơ sở giáo dục - đào tạo bước đầu về lĩnh vực này. Tuy nhiên, các cơ sở giáo dục - đào tạo này chưa cho ra nguồn nhân lực được tích hợp đầy đủ các năng lực về công nghệ và quản trị đáp ứng chính xác nhu cầu của hoạt động truyền thông mới. Điều này đòi hỏi cấp thiết xây dựng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực truyền thông với yêu cầu hội tụ đủ các kỹ năng về công nghệ và quản trị, đồng thời có khả năng đáp ứng ngay yêu cầu của các nhà tuyển dụng khi ra trường./.
Theo Tạp chí Cộng sản
Link nội dung: https://tlpd.vn/nhung-van-de-dat-ra-trong-viec-dap-ung-nguon-luc-cho-linh-vuc-truyen-thong-moi-new-media-a38898.html